Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014
Kỉ niệm 60 năm chiến thắng điện biên phủ ( 7/5/1954 – 7/5/2014 )
- Em ơi! Cho quân nhân mượn “cót quây” gạo! Bà chủ nhà đang cho lợn ăn , quay ra và rất ngạc nhiên , nói tiếng Thái: - Cót quây? Cu thẩu lẹo , bấu cót đờ lẩy , sáo sa cót vớ! ( Tôi già rồi , không ôm được đâu; tìm nử tử mà ôm ). Chiến sĩ quân lương chỉ cười , chẳng hiểu bà mế nói gì. May sao vừa lúc ấy , có ông Trưởng bản tới , giúp giải thích bằng tiếng phổ thông: “Cót” , theo tiếng Thái tức là “ôm”. “Quây” , tức là chỉ thứ người nam mới có. Nghe quân nhân nói thế , bà già sợ như đám lính ngụy năm chưa giải phóng Tây Bắc ( 1952 ) , thường bắt bớ , hiếp dâm phụ nữ… Rõ khổ vì ngôn ngữ bất đồng! tạo thành thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ , bên cạnh những chiến sĩ trực tiếp chống chọi , còn có sự đóng góp lớn của lực lượng dân công. Thanh Hóa là một tỉnh có số lượng dân công đông nhất , lên tới 1.061.593 lượt người , 27 triệu lương lậu , chi viện hơn 34 nghìn tấn thóc cùng một số lượng lớn thực phẩm phục vụ trận mạc. Cụ Trần Khôi , Vốn dĩ Chính trị viên Đại đội xe thồ hỏa tuyến 101 , thanh Hóa. Đại đội có nhiệm vụ chuyển lương thực từ Thanh Hóa đi qua Sầm Nưa , đến Vạn Mai , lên Cò Nòi , qua Sơn La tới Điện Biên Phủ. Những con đường được dân công đi trước xé rừng và đánh dấu. Sau đó , từng đoàn xe thồ và dân công gánh bộ theo mà đi. Cựu chiến binh Trần Khôi cho biết , ban đầu , anh chị em , hầu hết ở tuổi mười tám đôi mươi , thồ lương thực bằng xe đạp được 60 kg , tăng dần lên một tạ rồi hai tạ. Kỉ lục được xác lập hàng đầu thuộc về “kiện tướng” Cao Văn Ty với 320 kg; sau đó tiếp nâng lên 345 kg với “vua xe thồ” Trịnh Ngọc. Có một chuyện đáng buồn nhưng rất cảm phục… Trong chuyến vận tải lương thực ban đầu từ Vạn Mai lên Cò Nòi , đoàn xe đang leo dốc cao thẳng đứng , bất thần địch bắn pháo sáng. Lập khắc đoàn xe phải dừng lại giữa vách núi trú ẩn. Do dốc quá cao , bất thần một chiếc xe thồ tuột dốc. Người chiến sĩ dốc sức ghì xe lại nhưng xe vẫn trôi xuống. Để tránh va vào đồng đội ở phía sau , khiến cả đoàn có thể bị đẩy rơi , rất truân hiểm , anh đã dũng cảm , đánh quật tay lái , cho xe tránh ra mép đường , cả người và xe rơi xuống vực sâu… Từng đoàn dân công ở các tỉnh , rời quê hương đi phục vụ trận mạc Điện Biên Phủ cuối năm 1953 đến tháng 5 , tháng 6 năm 1954. Thường thì mỗi người khi đi cũng chỉ có hai bộ áo quần đơn sơ; bộ mặc , bộ buộc cạnh xe thồ. Quá trình tiến quân , thời tiết mưa lại nắng; áo quần ướt lại khô… mục rách dần. Riêng từ cái , ai nấy rách thì vá… vá rồi lại rách. Không có mụn để vá thì anh chị em xé dần , áo dài tay thành áo cộc tay; quần dài thành quần đùi. Ái ngại nhất là chị em nữ giới. Song để khắc phục khó khăn , các đơn vị yêu cầu cấp trên may cho mỗi người hai chiếc quần đùi để đổi thay. Với kiên tâm cùng các chiến sĩ đang cầm súng tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ , một dân công xe thồ Rung động trong lòng nói từ đáy lòng: “Để thắng giặc Pháp , xóa bỏ ách Đày tớ thực dân đế quốc thì dù phải đóng khố làm nhiệm vụ này , chúng tôi vui vẻ chấp nhận…”. Cựu chiến binh lái xe Nguyễn Thái Cần , từng được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba và Huy hiệu Bác Hồ , không thể quên được những kỉ niệm sâu sắc trên đường tiến quân. Đội xe C6 của ông gồm có 21 chiếc gát ba cầu của Liên Xô rất khỏe , chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ. Hôm ấy vào đầu tháng 4/1954 , trời lất phất mưa , có sương bao trùm núi rừng; che mắt được phi cơ địch và tiện lợi cho đội xe. Xe đang chạy đột nhiên một chiếc xe bị gãy nhíp ở giữa khu rừng già. Biết làm sao? không lẽ để xe chở đầy vũ khí chết dí một chỗ , trong lúc trận mạc đang cần từng khẩu súng , hòn đạn. Đội trưởng Cần cùng cha con nảy ra sáng kiến táo bạo: Đốn một cây săng lẻ là loại gỗ cứng , đẽo thành chiếc nhíp thay thế tạm thời và xe đi được tới đích tuy tốc độ chậm và tay lái nặng hơn so với bình thường. Tại Phân viện 12 , Cục Quân y ở xã Vô Tranh , huyện Hạ Hòa , tỉnh Phú Thọ , số thương binh ở trận mạc Điện Biên Phủ đưa về lên tới 300 người. Chỉ trong hai tuần , anh chị em dân công đã làm xong hơn 20 chiếc nhà. Mỗi nhà nằm được vài chục thương binh. Giường điều trị là những tấm phên nứa kê sát vào nhau. Phân viện có phòng băng , phòng mổ , Bếp , nhà ở ăn. Ngoài ra còn có hội trường 5 gian; ghế ngồi là những đoạn cây dài đặt trên các cọc chéo nhau. Bên cạnh 50 thầy thuốc , y sĩ , y tá của đơn vị , lực lượng phục vụ , hộ lí , nấu bếp , cáng thương , cốt tử là anh chị em dân công đảm đương. Trong số ấy có cô Nguyễn Hạnh Hoa nhỏ nhắn , xinh đẹp , hay mặc chiếc áo nâu non đỏ. Cha con thương binh thường gọi là “Cô áo đỏ”. Hạnh Hoa kiêu dũng , hay hát , thường cười. Vào một đêm , cơn mưa ào ào kéo đến. Các nhà thương binh nằm chỗ nào cũng dột. Cô và đơn vị chóng vánh lấy áo mưa , vải dù che cho cha con. Mưa mỗi lúc một to; nước từ trên núi đổ xuống Trạng thanh: Ù ù , cuốn trôi cả giày dép ra suối. Hạnh Hoa đội mưa chạy theo vớt lại. Bỗng cô kêu thất thanh: “Anh Đạt! Các anh chị ơi , ca ca Đạt!…”. Đạt bị thương vào sọ não , hễ lên cơn là hò la. Do sấm sét khiến anh kinh hãi lao mình xuống suối. Công chúng chạy ra cứu Đạt và Hạnh Hoa. Suối Sôi sục chảy. Qua tia chớp , đồng đội thấy chiếc băng trắng trên đầu Đạt nhấp nhô , bên cạnh là Hạnh Hoa đang chới với… Hai người được anh chị em kéo lên hồi sức cấp cứu. Sau 30 phút Hạnh Hoa từ từ mở mắt , miệng mấp máy: “Anh Đạt đâu?… Anh Đạt có sao không?…”. Có nhiều trường hợp mổ không thuốc gây mê , ca sĩ Kim Ngọc lại hát để thương binh bớt đau đớn. Ca sĩ tâm sự: “Ngày ấy , tôi đã dùng tiếng hát của mình như một liều thuốc”. Hết ca mổ này đến ca mổ khác , ca sĩ vừa đạp xe đạp điện để lấy ánh sáng , vừa hát cùng dòng nước mắt tuôn trào thương đồng đội đang điều trị tại trạm xá tiền phương… ( Còn nữa ) ghi chép của Nhà văn Chi Phan .
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét